Bảng Lương Quân Nhân Chuyên Nghiệp Trong Quân Đội Nhân Dân Việt Nam

Bảng Lương Quân Nhân Chuyên Nghiệp Trong Quân Đội Nhân Dân Việt Nam

Kể từ ngày thành lập, 22/12/1944, tới nay đã trải qua 77 năm, Quân đội ta đã mang nhiều tên gọi khác nhau: Việt Nam tuyên truyền Giải phóng quân, Việt Nam Giải phóng quân, Vệ quốc đoàn, Quân đội Quốc gia Việt Nam và Quân đội Nhân dân Việt Nam. Dù với tên gọi nào, Quân đội Nhân dân Việt Nam luôn là quân đội của Nhân dân, do Nhân dân, vì Nhân dân, là lực lượng nòng cốt của lực lượng vũ trang Nhân dân Việt Nam, được Đảng Cộng sản Việt Nam và Chủ tịch Hồ Chí Minh tổ chức, giáo dục và rèn luyện. Tên gọi “Quân đội Nhân dân” là do Chủ tịch Hồ Chí Minh đặt với ý nghĩa “từ Nhân dân mà ra, vì Nhân dân phục vụ”.

Kể từ ngày thành lập, 22/12/1944, tới nay đã trải qua 77 năm, Quân đội ta đã mang nhiều tên gọi khác nhau: Việt Nam tuyên truyền Giải phóng quân, Việt Nam Giải phóng quân, Vệ quốc đoàn, Quân đội Quốc gia Việt Nam và Quân đội Nhân dân Việt Nam. Dù với tên gọi nào, Quân đội Nhân dân Việt Nam luôn là quân đội của Nhân dân, do Nhân dân, vì Nhân dân, là lực lượng nòng cốt của lực lượng vũ trang Nhân dân Việt Nam, được Đảng Cộng sản Việt Nam và Chủ tịch Hồ Chí Minh tổ chức, giáo dục và rèn luyện. Tên gọi “Quân đội Nhân dân” là do Chủ tịch Hồ Chí Minh đặt với ý nghĩa “từ Nhân dân mà ra, vì Nhân dân phục vụ”.

Phù hiệu kết hợp cấp hiệu của Quân đội nhân dân Việt Nam

Phù hiệu kết hợp cấp hiệu được sử dụng đối với quân phục dã chiến hoặc khi không cần thiết phải mang cấp hiệu.

Nền phù hiệu hình bình hành; Lục quân màu đỏ tươi, Bộ đội Biên phòng màu xanh lá cây, Phòng không – Không quân màu xanh hòa bình, Hải quân màu xanh than. Nền phù hiệu của cấp tướng có viền màu vàng rộng 5 mm ở 3 cạnh kề nhau.

Trên nền phù hiệu gắn hình phù hiệu, sao màu vàng, riêng cấp tướng binh chủng hợp thành không gắn hình phù hiệu. Số lượng sao:

Đại tướng Lục quân – Binh chủng hợp thành

Thượng tướng Phòng không – Không quân

Trên nền phù hiệu gắn hình phù hiệu, gạch dọc và sao màu vàng. Cấp tá 2 gạch dọc, cấp úy 1 gạch dọc. Số lượng sao:

Cấp sĩ: Trên nền phù hiệu gắn hình phù hiệu, 1 vạch dọc và sao màu vàng. Số lượng sao:

Cấp binh: Trên nền phù hiệu gắn hình phù hiệu, sao màu vàng. Số lượng sao:

Học viên đào tạo sĩ quan, hạ sĩ quan, nhân viên chuyên môn kỹ thuật: Gắn hình phù hiệu, 1 vạch dọc màu vàng ở giữa, không gắn sao. Vạch dọc của học viên đào tạo sĩ quan rộng 5 mm, của học viên đào tạo hạ sĩ quan, nhân viên chuyên môn kỹ thuật rộng 3 mm.

và cấp bậc quân sự các quốc gia

Trong suốt 80 năm xây dựng chiến đấu và trưởng thành, Quân đội nhân dân Việt Nam đã trở thành lá chắn thép vững chắc bảo vệ Tổ quốc và nhân dân trước những thế lực ngoại bang xâm lược và những thách thức an ninh phi truyền thống.

Với tinh thần "Vì nhân dân quên mình”, Quân đội nhân dân Việt Nam đã làm nên những chiến công hiển hách, ghi dấu ấn trong lòng dân tộc và bạn bè quốc tế. Từ một đội quân nhỏ bé, chỉ với 34 chiến sĩ đầu tiên, quân đội đã phát triển lớn mạnh với đầy đủ các loại hình quân binh chủng và các lực lượng, ngày càng chính quy, hiện đại.

Buổi sơ khai ban đầu, quân đội được hình thành như thế nào? Phóng viên VOV phỏng vấn Đại tá, Phó Giáo sư, Tiến sĩ Trần Ngọc Long, nguyên Phó Viện trưởng Viện Lịch sử Quân sự.

PV: Ngày 22/12/1944, Đội Việt Nam Tuyên truyền Giải phóng quân, một trong những lực lượng tiền thân của quân đội ta ra đời giữa núi rừng Việt Bắc. Trong thời điểm còn vô vàn khó khăn, gian khổ và thiếu thốn khi đó, việc tuyển chọn quân số, lực lượng cho việc thành lập Đội được tiến hành như thế nào, thưa ông?

Đại tá Trần Ngọc Long: Tháng 9/1944, lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc về nước, trở lại Cao Bằng, đúng thời điểm liên tỉnh Cao – Bắc - Lạng đang chuẩn bị phát động cuộc khởi nghĩa. Trong bối cảnh tình hình chưa thật sự cho phép, chưa chín muồi, lãnh thủ Nguyễn Ái Quốc đã chỉ thị phải hoãn ngay cuộc khởi nghĩa.

Sau khi quyết định hoãn cuộc khởi nghĩa thì người chỉ đạo mấy vấn đề. Một là phải nhanh chóng mở rộng chỗ đứng chân. Hai là phải nhanh chóng mở rộng ảnh hưởng của Mặt trận Việt Minh. Ba là cần phải xây dựng một tổ chức vũ trang đủ sức gánh vác nhiệm vụ cách mạng trong tình hình mới. Hay nói cách khác tức là phải xây dựng một đội quân giải phóng, để làm nòng cốt cho phong trào cách mạng, để đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ của phong trào cách mạng trong giai đoạn mới.

Đây chính là căn nguyên của việc Người đã giao cho đồng chí Võ Nguyên Giáp tổ chức một đội quân giải phóng. Người yêu cầu phải gấp rút lựa chọn trong số những chiến sĩ Cao – Bắc – Lạng. Lực lượng chủ yếu là lựa chọn trong số những đội viên anh dũng. Cán bộ chỉ huy phải lựa chọn những người đã từng được học tập ở nước ngoài, có kiến thức và kinh nghiệm về quân sự.

Với chỉ thị của lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc, đồng chí Võ Nguyên Giáp cùng với các ông Vũ Anh, ông Lê Quảng Ba đã bắt tay xây dựng đội quân này. Bắt đầu từ việc lập danh sách những thành phần ưu tú nhất, những người anh dũng nhất, chọn lực lượng đủ thành phần dân tộc. Danh sách dự kiến sẽ thành lập một trung đội bao gồm 3 tiểu đội.

Sau khi đã lựa chọn được danh sách rồi thì các đồng chí Võ Nguyên Giáp, Vũ Anh và Lê Quảng Ba đều thống nhất là đề cử đồng chí Hoàng Sâm làm đội trưởng, đồng chí Xích Thắng, tức là Dương Mặc Thạch làm chính trị viên. Sau khi đã hoàn thiện danh sách để trình lên lãnh tụ Hồ Chí Minh và đề nghị tên đội là Việt Nam Giải phóng quân. Nhưng Bác đề nghị bổ sung thêm 2 chữ "tuyên tuyền", tức là Việt Nam Tuyên truyền Giải phóng quân.

PV: Vì sao Bác Hồ lại thêm 2 từ "tuyên truyền" vào tên của Đội. Hay nói cách khác, với tên gọi là Đội Việt Nam Tuyên truyền Giải phóng quân mang hàm ý, thưa ông?

Đại tá Trần Ngọc Long: Việt Nam Tuyên truyền Giải phóng quân, theo Bác có nghĩa là xác định đội quân này là đội quân tuyên truyền, chính trị trọng hơn quân sự. Trong hoàn cảnh lịch sử lúc bấy giờ thì rõ ràng xác định nhiệm vụ chính trị trọng hơn quân sự, tuyên truyền nặng hơn vũ trang. Đó là một tầm nhìn chiến lược sắc xảo của lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc. Và cũng là viên gạch đầu tiên đặt nền tảng cho việc xây dựng một quân đội kiểu mới, quân đội của dân, do dân và vì dân. Cho nên đội mang tên là Đội Việt Nam Tuyên truyền Giải phóng quân thay vì Đội Việt Nam Giải phóng quân như cái tên ban đầu.

PV: Buổi đầu thành lập rất khó khăn và thiếu thốn, quân số ít, vũ khí trang bị thiếu, kinh nghiệm tác chiến không nhiều nhưng Đội Việt Nam Tuyên truyền Giải phóng quân đã có ngay chiến thắng trận đầu bằng trận tập kích vào Đồn Phai Khắt. Đó là một sự khởi đầu, mở đầu cho những thắng lợi về sau của quân đội ta sau này?

Đại tá Trần Ngọc Long: Cái hay của trận Phai Khắt là chúng ta không chỉ tổ chức tập kích rất nhanh và sau đấy còn tổ chức rút lui rất gọn. Thậm chí trước khi rút lui, Đội còn xây dựng, bàn bạc về cơ sở cách mạng ở đấy, xây dựng kế hoạch để bảo vệ cho đồng bào khi quân Pháp quay về trả thù. Điều này cho thấy tên chức năng của Đội, đúng là vũ trang tuyên truyền.

Trận đầu Phai Khắt giành thắng lợi đã tạo ra một tiếng vang rất lớn về uy tín của lực lượng vũ trang cách mạng lúc bây giờ, không chỉ ở vùng Nguyên Bình mà khắp cả vùng Cao - Bắc - Lạng. Đồn Phai Khắt bị tiêu diệt bằng cách nhanh gọn như vậy gây một cơn sốc đối với quân Pháp. Đặc biệt đối với ta, nó gây ra một cái tiếng vang rất lớn, cổ vũ phong trào cách mạng trong vùng. Từ nay người dân tin tưởng, vùng dậy đấu tranh cách mạng, nhân nhân sẽ có tổ chức vũ trang hỗ trợ. Phải nói là uy tín của Việt Nam Tuyên truyền Giải phóng quân sau trận Phai Khắt đã được lan ra rất nhanh chóng.

Từ trận Phai Khắt cũng cho chúng ta những bài học manh nha đầu tiên về nghệ thuật quân sự, nghệ thuật tác chiến, công tác thu dung chiến trường, cả vấn đề chính sách hậu phương quân đội, về công tác dân vận. Tất cả mọi thứ có thể nói là đặt ra những cái viên gạch đầu tiên cho rất nhiều lĩnh vực liên quan đến một chiến dịch, một trận đánh.

Nhưng theo chúng tôi, điều quan trọng nhất, ý nghĩa lớn nhất đối với hai chiến thắng Phai Khắt, Nà Ngần không chỉ nằm ở chỗ thu được một số vũ khí, giải quyết được hai đồn, nhổ được hai ung nhọt trong hệ thống kìm kẹp, đàn áp phong trào cách mạng của thực dân Pháp, mà cái lớn hơn thế là mở ra một truyền thống đánh thắng trận đầu. Đã ra quân là đánh thắng cho đội quân chủ lực, cho Việt Nam Tuyên truyền Giải phóng quân.

PV: Ngoài chức năng là đội quân chiến đấu thì quân đội ta có hai chức năng nữa là đội quân công tác và đội quân lao động sản xuất. Đây có được coi là một đặc trưng khác biệt giữa quân đội ta với quân đội của các nước trên thế giới không?

Đại tá Trần Ngọc Long: Phải nói rằng, quân đội ta so với quân đội các nước có nhiều điểm khác. Đặc biệt là so với quân đội các nước tư bản. Quân đội các nước tư bản thuần túy là một đội quân tác chiến, đội quân chiến đấu. Đối với Quân đội nhân dân Việt Nam, bản chất từ sâu xa ngay ngày đầu thành lập cho đến ngày nay, đó là một đội quân từ nhân dân mà ra. Một đội quân của dân, do dân và vì dân.

Từ buổi đầu thành lập rất thô sơ như vậy và trải qua chặng đường cho đến bây giờ là 80 năm, thì Quân đội nhân dân Việt Nam luôn luôn thể hiện được đó không chỉ là một đội quân chiến đấu mà còn là một đội quân công tác và một đội quân lao động sản xuất.

Chiến tranh có xảy ra đi chăng nữa hay tình hình thế giới có nhiều bất ổn, nhiều vấn đề gì chăng nữa, thì trước sau, quân đội ta vẫn giữ vững được bản chất như vậy. Vẫn là một cái đội quân chiến đấu, đội quân công tác và đội quân lao động sản xuất. Cho dù chức năng trong từng giai đoạn lịch sử có thể thay đổi nhưng bản chất thì vẫn như vậy.

Bởi vì trong từng giai đoạn lịch sử cụ thể, chức năng chiến đấu có thể được đề cao hơn, được nhấn mạnh hơn, nhưng trong thời bình thì chức năng đội quân công tác, đội quân lao động sản xuất sẽ có những cái được chú trọng hơn. Tức là tùy theo từng hoàn cảnh lịch sử cụ thể. Nhưng rõ ràng xuyên suốt trước sau như một đó vẫn là một đội quân chiến đấu, đội quân công tác và đội quân lao động sản xuất. Và cội nguồn, cái mạch nguồn để giúp cho Quân đội nhân dân Việt Nam phát triển được như ngày hôm nay chính là từ tính nhân dân của một cái đội quân cách mạng.

Nhân kỷ niệm 80 năm Ngày thành lập Quân đội Nhân dân Việt Nam (22/12/1944 - 22/12/2024), 35 năm Ngày hội Quốc phòng toàn dân (22/12/1989 - 22/12/2024), sáng 12/12, Tỉnh ủy, HĐND, UBND, Ủy ban MTTQ tỉnh đã thành lập đoàn công tác về các địa phương thăm, tặng quà các Mẹ Việt Nam Anh hùng; Anh hùng Lực lượng vũ trang, thương, bệnh binh, thân nhân liệt sỹ, gia đình có công với cách mạng.

Quân phục Quân đội nhân dân Việt Nam là hệ thống trang phục cho chiến sĩ và sĩ quan các cấp trong các quân chủng, binh chủng thuộc Quân đội nhân dân Việt Nam.

Trước yêu cầu đặc thù của các hoạt động quân sự và xây dựng Quân đội nhân dân Việt Nam trong giai đoạn cách mạng mới, từng bước hiện đại và hội nhập quốc tế nên Bộ Quốc phòng đã nhiều lần đưa ra chủ trương cải tiến quân phục cho phù hợp và đã được phê duyệt.[1]

Dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Đông Dương ngày 22 tháng 12, tại khu rừng nằm giữa hai tổng Trần Hưng Đạo và Hoàng Hoa Thám chiến khu Việt Bắc, Đội Việt Nam Tuyên truyền Giải phóng Quân được thành lập. Đây là những chiến sĩ cách mạng đã sớm giác ngộ, với quân số 34 người, những người đầu tiên của lực lượng vũ trang chính quy của Đảng. Thời điểm này Việt Nam Tuyên truyền Giải phóng quân chưa có đồng phục chính quy. Mỗi chiến sĩ mang trang phục tùy ý theo thói quen và sở thích.

Vừa chiến đấu, vừa xây dựng lực lượng, tình hình trang phục của quân đội này biến chuyển tùy thuộc sự ủng hộ của nhân dân và tùy thuộc những chiến lợi phẩm thu được của địch sau mỗi trận đánh thắng. Do đó ngoài quần áo thường, có khi các đội viên còn mặc cả quần áo lính tập, quần áo lính hoặc sĩ quan thu được của Pháp, Nhật...

Hiện tượng trên kéo dài cho tới ngày Tổng khởi nghĩa thắng lợi. Để ra mắt nhân dân Thủ đô Hà Nội, chào mừng ngày lễ Độc lập (2-9). Đội Việt Nam tuyên truyền Giải phóng quân từ chiến khu về Hà Nội đã được trang bị đồng bộ.

Nam: áo sơ mi cộc tay, vạt áo bỏ trong quần. Mặc quần soóc, thắt lưng da to bản. Chân đi giầy da ngắn cổ. Đội mũ cát màu trắng.

Nữ: áo sơ mi cộc tay, có túi ở ngực, thắt lưng da to bản. Mặc quần vải màu đen, gấu quần túm gọn. Đi giầy ba ta. Tóc cặp gọn. Đội mũ rộng vành màu chàm.

Đã giành được chính quyền, nhưng vấn đề trang phục quân đội vẫn chưa được quy định, sự trang bị tùy thuộc khả năng của từng đơn vị, từng địa phương.

Riêng ở Hà Nội, các chiến sĩ Vệ quốc quân (đa số là thị dân, học sinh, công nhân) mặc rất đẹp. Áo sơ mi, quần bó ống, đi giầy da cổ thấp. Đặc biệt là có loại mũ ca lô vải màu vàng hay bằng dạ tím than, đội lệch trên đầu. Trước mũ đính một ngôi sao vàng trên nền đỏ hình tròn. Tự vệ chiến đấu thành đeo sao vàng, nền đỏ hình vuông.

Đối với cán bộ chỉ huy, quân hiệu còn thêu thêm một vành chỉ màu vàng cho các cấp tiểu đội trưởng, trung đội trưởng, đại đội trưởng từ cấp chi đội trưởng thêu bằng chỉ kim tuyến (vàng).

Cấp phó thêu một vành bằng chỉ màu trắng, từ cấp chi đội phó thêu bằng chỉ ngân tuyến.

Ngoài ra, còn có cấp hiệu hình chữ nhật (5cm x 2cm) gài ở túi ngực bên trái. Cấp hiệu, nền bằng vải màu đỏ, ở giữa thêu sao màu trắng. Cấp cán bộ tiểu đội: 1 sao, trung đội: 2 sao, đại đội: 3 sao, chi đội: 4 sao.

Cấp trưởng thêu vành vàng, cấp phó thêu vành trắng.

Ngày 19-12, ngày Toàn quốc kháng chiến chống thực dân Pháp xâm lược. Các lực lượng vũ trang tản vào dân, dựa vào dân, mặc như dân. Ở miền Bắc, miền Trung chủ yếu mặc vải nâu: Áo cánh có hai túi, quần ta buộc túm ống (do đó có tên gọi bộ đội là Vệ túm). Có người mặc sơ-mi, quần Âu. Mũ nón, giầy dép có gì dùng vậy. Có người đi chân đất. Cán bộ mặc thêm áo blu-dông, áo vét Ca-na-điêng, áo va-rơi... tùy theo khả năng tự túc. Chiến sĩ khu V, mặc áo cánh, quần ta màu tro xám bằng vải Sita. Miền Nam thường mặc áo bà ba đen, quần đùi do đặc điểm thời tiết nóng và do phải hoạt động trong địa hình Nam Bộ nhiều kênh rạch, sình lầy.

Phù hiệu đính trên mũ hình tròn:

Cuối năm, xuất hiện chiếc áo trấn thủ trong quân đội. Áo trấn thủ rất đơn giản, ngắn đến thắt lưng, cổ tròn, không có tay áo. Gồm có hai mảnh: mảnh trước và mảnh sau, nối liền nhau ở cạnh sườn và một bên vai. Còn cạnh sườn và trên vai bên kia thì cài cúc. Mỗi mảnh áo may hai lần vải, ở giữa nhồi bông, chần hình quả trám. Áo gọn gàng, giữ nhiệt tốt. Những năm kháng chiến gian khổ thiếu bông, có thời kỳ phải dùng lông vịt hay vỏ cây sui đập giập, phơi khô thay bông. Cúc áo cũng thiếu, phải dùng dây vải buộc hoặc làm cúc bằng giấy ép tẩm sơn.

Tấm áo trấn thủ đã trở thành một điển hình khi ta nói tới anh bộ đội thời kỳ kháng chiến chống Pháp. Thêm vào đó, không thể không nhắc tới chiếc mũ đan bằng tre, hoặc làm bằng lá cọ nhưng có đặc điểm là bọc vải trùm cả vành mũ, bên ngoài phủ một tấm lưới có giắt rải rác những miếng vải dù hoa xé nhỏ để ngụy trang. Có trường hợp mũ chỉ bọc vải dù. Dưới chân đi dép cao su.

Đôi dép cao su này từ khu 4 trở ra được gọi là dép Bình Trị Thiên. Đây là một sáng tạo có giá trị lịch sử, cung cấp giày cho quân, dân Việt Nam suốt thời gian kháng chiến chống Pháp và mãi về sau này. Chiến sĩ Việt Nam lấy lốp xe, đo chân cắt thành đế dép, dùi 8 lỗ để xỏ quai bằng săm ô tô (cao su đen): hai quai chéo phía trên, hai quai ngang phía dưới làm quai hậu và quai vàng. Bề ngang các quai khoảng 1cm. Một đôi dép rất đơn giản, dùng được trong mọi điều kiện nắng, mưa, lội nước, đạp gai v.v... Bộ đội, nhân dân đang thiếu giày dép, đa số đi chân đất rất thích sử dụng dép cao su với giá thành rẻ.

Dép lên đến Việt Bắc được cải tiến: hai quai chéo làm to bản ra và được đóng đinh tre thêm cho đỡ tuột.

Từng bước bộ đội được trang bị đồng bộ: áo sơ-mi hai túi, có cầu vai, quần Âu, ở gấu quần có khuy và khuyết để cài túm lại cho gọn gàng. Cả bộ màu xanh lá hay màu cỏ úa. Đi giầy vải xanh, đế cao su. Nhiều người vẫn đi dép cao su.

Ở chiến dịch Tây Bắc, để chống cái rét của vùng rừng núi, bộ đội được phát áo trấn thủ. Ngoài ra, do thu được nhiều dù chiến lợi phẩm, mỗi người thường dùng một miếng dù to, khi hành quân thì ngụy trang, trời rét thì quàng cổ, đêm ngủ thì làm chăn đắp.

Quân đội nhân dân Việt Nam bắt đầu được trang bị quân phục thống nhất.

Đến ngày tiếp quản Thủ đô (10-1954), đa số đã được mặc đồng phục.

Quân hiệu hình tròn, đường kính 33mm, nền màu đỏ tươi, ở giữa là ngôi sao vàng 5 cánh nổi, không có nửa bánh xe với 5 răng và hai bông lúa màu vàng. Vành ngoài quân hiệu màu vàng.

Bắt đầu có trang phục, quân hiệu, cấp hiệu, phù hiệu của Lục quân, Không quân, Hải quân.

Cấp hiệu của các quân chủng đều nền màu vàng, viền chung quanh theo màu nền của từng loại quân hiệu. Cấp hiệu đeo ở cầu vai. Phù hiệu, nền theo màu của từng quân chủng, có các hình tượng trưng theo từng loại binh chủng. Phù hiệu đeo ở ve áo.

Hình ảnh anh bộ đội thời kỳ chiến tranh Đông Dương lần 1 được tô đậm nét cùng với tấm áo trấn thủ điển hình thì chiếc mũ tai bèo thời chiến tranh Việt Nam lại là tượng trưng cho lực lượng MTGP. Lính MTGP quân mặc áo sơ mi, quần Âu vải xanh lá, đi giầy vải, đội mũ tai bèo. Mũ tai bèo là một loại mũ vải màu xanh lá, vành mũ tròn và mềm giống như cánh bèo, bên cạnh đó họ còn thường khoác một mảnh vải dù hoa để ngụy trang. Quân hiệu hình tròn, nền nửa trên đỏ nửa dưới màu xanh da trời, ở giữa là ngôi sao vàng nổi. Phía dưới có hình nửa bánh răng, và hai bông lúa vươn lên bao quanh ngôi sao. Vành ngoài màu vàng.

Ngoài những bộ trang phục thường dùng, ngành quân trang còn nghiên cứu sáng tạo ra nhiều bộ quần áo mới để góp phần giải quyết những vấn đề về quân sự trong cuộc đụng độ với một kẻ thù có một tiềm lực to lớn, có những phương tiện vũ khí hiện đại đặc biệt. Tuy đây không phải là trang phục chính quy nhưng những trang phục này có ý nghĩa lịch sử, góp phần vào những chiến công oanh liệt vang dội hoàn cầu. Đó là những quân trang nghiệp vụ.

Bộ quần áo bay của phi công lái máy bay do ngành quân trang Việt Nam sản xuất, được mặc ra ngoài bộ quần áo cao áp, được may theo qui cách riêng, phù hợp với đặc tính chiến đấu của quân đội Việt Nam, tạo điều kiện thuận lợi sử dụng những thiết bị mang theo người gọn nhẹ: quần 6 túi, áo 10 túi, kiểu may mang những nét dân tộc để khi nhảy dù không lẫn với phi công của địch. Áo phao cho các chiến sĩ đặc công thủy: May theo kiểu áo cộc tay, hai lần vải, ở giữa chứa hạt xốp có tác dụng làm nổi người, nhất là đối với những trường hợp chiến sĩ đuối sức, hay bị ngất đi trong khi làm nhiệm vụ dưới nước.

Áo giáp: trên cơ sở áo trấn thủ hai lượt vải, giữa áo giáp có đặt các miếng kim loại hoặc buộc ở ngoài áo nhiều miếng kim loại xếp chồng lên nhau như vẩy tê tê hay mái ngói, có tác dụng chống mảnh đạn hay bom bi của địch. Áo giáp ngắn cho chiến sĩ lái xe ô tô. Áo giáp dài cho chiến sĩ đứng ở điểm chốt đếm bom rơi hay báo động. Áo này nặng đến 27kg.

Trang phục được quy định để áp dụng thống nhất trong toàn quân gọi là quân phục K82. Quân phục K82 có kiểu để mặc trong mùa hè, mùa thu, có kiểu để mặc trong mùa đông, mùa xuân, có kiểu dùng cho sĩ quan, chuẩn úy, quân nhân chuyên nghiệp, hạ sĩ quan, binh sĩ, học viên nam và nữ, có kiểu của bộ đội Hải quân, có kiểu dùng cho lực lượng làm nhiệm vụ riêng biệt. Khi làm việc, học tập, hội họp bình thường ở trong nước, sĩ quan chuẩn úy, quân nhân chuyên nghiệp và nữ, mùa hè, mùa thu nam mặc áo chít gấu, dài tay, cổ đứng, hoặc áo chít gấu, ngắn tay, cổ bẻ. Nữ mặc áo dài tay cổ đứng hoặc áo dài tay cổ bẻ không có áo ngắn tay. Cả hai loại đều có 2 túi ngực may ngoài, nắp túi lượn. Mặc quần dài. Đeo quân hàm kết hợp. Đi giầy hoặc đi dép, khi cần thiết có thể đi ủng. Đội mũ cứng hoặc mũ mềm. Về quần, nói chung là một kiểu thống nhất. Về chất liệu, tùy theo cấp bậc, có những loại vải khác nhau. Về qui cách mặc, về trường hợp sử dụng như khi làm việc, khi hội họp, khi dự lễ, khi đi nước ngoài... đều được quy định. Đi công tác, học tập, hội họp, công tác ở nước ngoài, sĩ quan hoặc chuẩn úy kể cả quân nhân chuyên nghiệp và nữ, mặc quân phục K82.

Mùa đông, mùa xuân, mặc quân phục K82 đồng bộ cùng một loại vải, theo màu của từng quân chủng. Áo sơ mi trong cổ đứng, màu quân phục (không mặc màu khác). Đeo cà vạt màu rêu thẫm. Áo ngoài cổ bẻ, có 4 túi nổi, nắp lượn. Quần như kiểu mùa hè. Đeo quân hàm kết hợp. Đội mũ mềm hoặc mũ cứng, mũ kê-pi, ở vùng rét nhiều có thể đội mũ bông. Đi giầy. Lúc rét, có thể mặc áo khoác dài K82, chỉ đeo quân hàm kết hợp. Khi mặc áo khoác, áo mưa có dây thắt bên ngoài, phải thắt và cài ngay ngắn về phía trước. Đối với nữ, (gồm tất cả các quân chủng), mặc quân phục K82 của nữ. Áo hai túi ngực có nắp lượn, chiết ly eo, gấu áo to, tay áo măng sét, cài khuy.

Riêng bộ đội Hải quân, mặc áo sơ-mi màu trắng hoặc màu ghi nhạt trong áo quân phục mùa đông K82, đeo cà vạt màu tím than. Bộ đội Hải quân lục chiến mặc theo kiểu và màu quân phục bộ binh, đeo quân hàm kết hợp màu tím than, có hình phù hiệu Hải quân đánh bộ. Bộ đội Không quân của Hải quân mặc theo kiểu và màu quân phục Không quân, mang quân hàm kết hợp màu tím than, có hình phù hiệu Không quân. Nếu là bộ đội Hải quân, mặc quân phục kiểu áo có yếm theo từng mùa. Mang quân hàm vuông ở đầu bả vai. Đội mũ cứng hoặc mũ mềm màu xanh tím than. Mũ (có dải) cả hai mùa đều màu trắng chỉ dùng trong nghi lễ và hội họp long trọng. Trên mũ này có quân hiệu và chữ "Hải quân Việt Nam" màu vàng. Đi giầy hoặc đi dép, khi cần thiết có thể đi ủng. Học viên Hải quân, mặc như quân phục học viên bộ binh nhưng theo màu Hải quân tùy theo từng mùa, mùa hè màu trắng còn mùa đông màu tím than. Hải quân đánh bộ, mặc như kiểu và màu quân phục bộ binh (màu xanh lá), mang quân hàm kết hợp màu tím than của Hải quân, có hình phù hiệu Hải quân đánh bộ. Bộ đội Không quân của Hải quân mặc theo kiểu và màu quân phục Không quân. Mang quân hàm kết hợp màu tím than của Hải quân, có hình phù hiệu Không quân. Đội mũ cứng hoặc mũ mềm màu tím than. Đi giầy hoặc đi dép, khi cần thiết có thể đi ủng.

Hạ sĩ quan, binh sĩ và học viên chưa phải là hạ sĩ quan hoặc chuẩn úy, là nam, mặc quân phục K82 chiến sĩ, áo trùm mông, hai túi ngực có nắp lượn, cổ cài kín ống tay có cài khuy, vạt áo bỏ ngoài quần, thắt lưng to bên ngoài. Khi mặc quân phục kiểu áo sơ-mi và áo kiểu của Hải quân, vạt áo bỏ trong quần, thắt lưng nhỏ bên ngoài. Mang quân hàm kết hợp, đội mũ cứng hoặc mũ mềm. Ở vùng rét nhiều, có thể đội mũ bông. Đi giầy hoặc đi dép, khi cần thiết có thể đi ủng. Hạ sĩ quan, binh sĩ và học viên chưa phải là sĩ quan hoặc chuẩn úy, mặc quân phục K82 như ở trong nước, mang quân hàm vai, phù hiệu có hình quân chủng binh chủng hoặc ngành chuyên môn. Đội mũ kê-pi, đi giầy, đeo cuống huân chương. Đeo quân hàm kết hợp, đội mũ cứng hoặc mũ mềm, ở vùng rét nhiều có thể đội mũ bông. Đi giầy hoặc đi dép. Các lực lượng làm nhiệm vụ riêng biệt, khi công tác, học tập, hội họp bình thường mặc quân phục thường dùng theo từng mùa như quy định ở trên. Còn khi làm công tác nghiệp vụ, bộ đội gác Lăng và bảo vệ khu Bảo tàng Hồ Chí Minh, bộ đội danh dự của Bộ và Quân nhạc, mặc quân phục K82 màu trắng có viền đỏ ở vành mũ kê-pi, ở ve áo, ngoài và nẹp dọc quần. Mũ kê-pi có dây màu vàng. Cúc áo nổi màu vàng có ngôi sao giữa hai bông lúa. Áo sơ mi trong của bộ đội gác Lăng và bộ đội bảo vệ khu Bảo tàng Hồ Chí Minh màu trắng, của bộ đội danh dự và quân nhạc màu cỏ úa, cà vạt màu rêu thẫm. Khi hòa nhạc hoặc phục vụ lễ tang, quân nhạc mặc áo sơ mi trắng, đeo cà vạt đen. Văn công quân đội mặc quân phục khi biểu diễn văn nghệ.

Các đơn vị chuyên môn như lái máy bay, lái xe tăng, xe bọc thép, thợ máy, bộ đội đặc công, quân y... khi luyện tập, hoạt động, công tác theo nghiệp vụ chuyên môn nào thì mặc trang phục nghiệp vụ đó. Các lực lượng cảnh vệ, canh gác các cơ quan Trung ương Đảng, Nhà nước, Bộ Quốc phòng, các cơ quan Bộ tư lệnh Quân khu, Quân đoàn, Binh đoàn Quân chủng, Binh chủng, các Học viện và trường thuộc Bộ, các lực lượng kiểm soát quân sự chuyên nghiệp làm nhiệm vụ mặc quân phục K82 có thắt lưng to bên ngoài. Ban ngày mang quân hàm vai, phù hiệu có hình quân chủng, binh chủng hoặc ngành chuyên môn, đội mũ kê-pi, đi giầy. Ban đêm đội mũ cối hoặc mũ mềm, mang quân hàm kết hợp.

Khi nóng, mặc quân phục hè theo màu của từng quân chủng, áo chít gấu dài tay, cổ cứng, mang quân hàm vai, đeo phù hiệu ở ve áo, đội mũ kê-pi, đi giầy da, đeo cuống huân chương. Khi rét, mặc quân phục đông đồng bộ theo màu của từng quân chủng. Áo sơ mi trong cổ cứng, quân phục, cà vạt màu rêu thẫm, mang quân hàm vai. Ve áo của cấp tướng, đeo cành tùng và một ngôi sao màu vàng, của cấp tá và cấp úy đeo phù hiệu có quân chủng, binh chủng hoặc ngành chuyên môn. Đội mũ kê-pi của cấp tướng có cành tùng kép màu vàng bao quanh quân hiệu, và dây màu vàng, của cấp tá có dây màu vàng, của cấp úy không có dây màu vàng. Riêng mũ kê-pi của sĩ quan Hải quân vành mũ màu trắng, thành mũ màu xanh tím than (cả hai mùa). Đi giày da, đeo cuống huân chương. Khi rét, mặc áo khoác ngoài kiểu K82, đeo quân hàm vai, ve áo cấp tướng có cành tùng và một ngôi sao vàng, của cấp tá đeo nền phù hiệu quân chủng, binh chủng hoặc ngành chuyên môn. Sĩ quan cấp tướng và cấp tá, lúc rét có thể mặc áo khoác K82, đeo quân hàm vai. Mùa hè, có thể mặc áo chít gấu cổ bẻ, mang quân hàm vai, đeo phù hiệu quân chủng, binh chủng hoặc ngành chuyên môn.

Khi dự đại lễ, đối với cấp tướng: mặc lễ phục mùa hè màu xám nhạt, mùa đông màu cỏ úa thẫm, áo ngoài cổ bẻ, cúc áo màu vàng hình quốc huy, hai túi dưới chìm, cổ áo có viền theo màu của từng quân chủng và bộ đội biên phòng, trên ve áo có cành tùng và một ngôi sao vàng. Áo sơ mi trắng, cổ đứng dài tay, cà vạt đen. Đeo quân hàm vai. Đội mũ kê-pi viền đỏ, có cành tùng kép màu vàng bao quanh chân hiệu, dây màu vàng. Quần như quân phục thường. Giầy da mầu đen. Cấp tá, lễ phục, màu và hình thức như của cấp tướng. Chỉ khác: mũ kê-pi không có cành tùng bao quanh quân hiệu. Ve áo chỉ có cánh tùng không có ngôi sao vàng. Cúc áo hình sao có hai bông lúa. Cấp úy, mặc quân phục đông K82 đồng bộ. Hạ sĩ quan, binh sĩ, học viên hoặc chuẩn úy: mặc quân phục K82 chiến sĩ, mang quân hàm cầu vai, đeo phù hiệu quân chủng, binh chủng hoặc ngành chuyên môn. Đội mũ cối hoặc mũ kê-pi, đi giầy. Quân nhân dự lễ đeo huân chương, huy chương và huy hiệu đã được tặng thưởng.

Khi dự tiểu lễ hoặc hội họp long trọng trong và ngoài nước: Sĩ quan và chuẩn úy kể cả quân nhân chuyên nghiệp mặc quân phục hè thu, áo chít gấu ngắn tay cổ bẻ (không đeo cà vạt) mang quân hàm vai, đeo phù hiệu ở ve cổ áo. Trường hợp mặc áo chít gấu dài tay, cổ đứng, không đeo cà vạt, mở cúc cổ áo, mang quân hàm và phù hiệu như khi mặc áo cổ bẻ, có thể xắn tay áo trên khuỷu tay, gấp nếp ngay ngắn. Quân nhân dự tiểu lễ hoặc hội họp long trọng, đeo cuống huân chương, huy chương và huy hiệu được tặng thưởng. Khi đi công tác, học tập ở nước ngoài lúc nóng bức có thể mặc áo chít gấu dài tay, cổ đứng, đeo cà vạt, mang quân hàm vai. Khi thắt cà vạt thì không đeo phù hiệu. Hạ sĩ quan, binh sĩ, học viên chưa phải là sĩ quan hoặc chuẩn úy mặc quân phục K82 chiến sĩ đeo quân hàm cầu vai, đeo phù hiệu có hình quân chủng, binh chủng hoặc ngành chuyên môn. Đội mũ cối hoặc mũ kê-pi, đi giầy.

So với các kiểu cũ, quân phục K82 là trang phục quân đội đã đạt được mức độ khá hoàn chỉnh thống nhất hơn cả. Tuy có sự tham khảo, học tập các kiểu quân phục nước ngoài, nhưng quân phục K82 không rập khuôn máy móc, mà vẫn tự định cho mình một kiểu cách riêng phù hợp với yêu cầu về thực dụng, thực tế, thẩm mỹ của Quân đội nhân dân Việt Nam.

Quân phục K94 là mẫu ngụy trang chính thức đầu tiên của Quân đội nhân dân Việt Nam được áp dụng từ cuối thập niên 1990 với họa tiết rằn ri tiger stripe pha thêm các mảng ngụy trang hình lá. Đây là một mẫu camo ngụy trang rất tốt so với thời đó, nhưng số lượng sản xuất quá nhỏ để cấp phát toàn quân.

Hơn nữa, quân phục K94 cũng là mẫu quân phục dành cho sĩ quan, được phát triển từ mẫu K82.

Quân phục K03 ra đời, dành cho hạ sĩ quan và chiến sĩ, màu xanh lá (với không quân màu xanh cỏ úa, đến năm 2008 màu xanh lam thẫm), cổ bẻ. Khi mặc, áo thường sơ vin trong quần.

Quân phục K07 ra đời, là quân phục rằn ri may theo kiểu BDU (Battle Dress Uniform) sử dụng hoạ tiết Woodland, quân hiệu trên mũ, sao và vạch trên quân hàm kết hợp sử dụng chất liệu kim loại, dùng để học tập ở thao trường.

Ngày 30 tháng 4, mẫu trang phục K-08 dành cho sĩ quan đã được một số cơ quan, đơn vị Bộ Quốc phòng mặc thử nghiệm, đã được các cấp thủ trưởng đánh giá cao, nhận được sự ủng hộ, đồng thuận của lực lượng. Quân hiệu hình tròn, ở giữa có ngôi sao năm cánh nổi mầu vàng trên nền mầu đỏ, xung quanh có hai bông lúa mầu vàng đặt trên viền đỏ tươi (với cảnh sát biển màu xanh lục thẫm), phía dưới hai bông lúa có hình nửa bánh răng mầu vàng, vành ngoài quân hiệu mầu vàng, dập liền với cành tùng kép mầu vàng (riêng lực lượng cảnh sát biển có dòng chữ "CSB" màu đỏ ở vị trí giao thoa giữa hai cành tùng). Xuất hiện mũ mềm của sĩ quan nữ. Ngày 22 tháng 12, trang phục sĩ quan kiểu K-08 được mặc thống nhất trong toàn quân, đúng vào thời gian đánh dấu mốc son chặng đường 65 năm ngày truyền thống vẻ vang của Quân đội nhân dân Việt Nam theo Quyết định số 109/2009/QĐ-TTg ngày 26 tháng 8 năm 2009 của Thủ tướng Chính phủ quy định về quân hiệu, cấp hiệu, phù hiệu, lễ phục.

Quân phục K17 ra đời, cũng là quân phục rằn ri nhưng quân hiệu trên mũ; sao, vạch sử dụng chất liệu chỉ thêu và quân hàm kết hợp phù hiệu quân binh chủng dạng verclo dán, dùng để học tập ở thao trường.

Quân phục dã chiến K20 sử dụng hoạ tiết ERDL chính thức được lựa chọn và dự kiến sẽ được trang bị đại trà.

Ngày 01 tháng 03 Chính phủ ban hành nghị định sửa đổi bổ sung một số điều quy định quân hiệu, cấp hiệu, phù hiệu và trang phục quân đội theo đề xuất thiết kế trang phục sĩ quan kiểu K-24 của Bộ Quốc phòng[2]

Sáng 12-12, tại Hà Nội, Tổng cục Chính trị Quân đội nhân dân Việt Nam long trọng tổ chức Lễ kỷ niệm 80 năm Ngày truyền thống (22-12-1944 / 22-12-2024) và đón nhận Huân chương Độc lập hạng Nhất. Tại Lễ kỷ niệm, Thượng tướng Trịnh Văn Quyết, Bí thư Trung ương Đảng, Ủy viên Thường vụ Quân ủy Trung ương, Chủ nhiệm Tổng cục Chính trị Quân đội nhân dân Việt Nam thay mặt lãnh đạo Tổng cục Chính trị trình bày diễn văn kỷ niệm. Báo Quân đội nhân dân trân trọng giới thiệu toàn văn bài diễn văn kỷ niệm.

Tại Lễ kỷ niệm 80 năm Ngày truyền thống (22-12-1944 / 22-12-2024) và đón nhận Huân chương Độc lập hạng Nhất do Tổng cục Chính trị Quân đội nhân dân (QĐND) Việt Nam long trọng tổ chức sáng nay (12-12), Tổng Bí thư Tô Lâm, Bí thư Quân ủy Trung ương đã có bài phát biểu quan trọng. Báo Quân đội nhân dân trân trọng giới thiệu toàn văn bài phát biểu của Tổng Bí thư Tô Lâm.

Sáng 12-12, Quận Đống Đa (TP Hà Nội) tổ chức Lễ kỷ niệm 80 năm Ngày thành lập Quân đội nhân dân Việt Nam (22-12-1944 / 22-12-2024) và 35 năm Ngày hội Quốc phòng toàn dân (22-12-1989 / 22-12-2024).

Sáng 12-12, tại Hà Nội, Tổng cục Chính trị Quân đội nhân dân (QĐND) Việt Nam long trọng tổ chức Lễ kỷ niệm 80 năm Ngày truyền thống (22-12-1944 / 22-12-2024) và đón nhận Huân chương Độc lập hạng Nhất. Tổng Bí thư Tô Lâm, Bí thư Quân ủy Trung ương dự và có bài phát biểu chỉ đạo quan trọng.

Với mục tiêu tạo cơ sở pháp lý chặt chẽ, phù hợp với thực tiễn, bảo đảm xây dựng đội ngũ sĩ quan (ĐNSQ) vững mạnh, làm nòng cốt xây dựng Quân đội nhân dân (QĐND) Việt Nam cách mạng, chính quy, tinh nhuệ, hiện đại, Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Sĩ quan QĐND Việt Nam (viết tắt là Luật Sĩ quan sửa đổi) tạo động lực mạnh mẽ trong xây dựng, phát triển ĐNSQ.

Ngày 22-12-1944, Đội Việt Nam Tuyên truyền giải phóng quân được thành lập; ngay từ ngày đầu thành lập, Đội đã có chi bộ đảng (4 đảng viên) có chức danh chính trị viên và tiến hành các hoạt động công tác đảng, công tác chính trị (CTĐ, CTCT).

Ngày 11-12, tại TP Đông Triều, Bộ CHQS tỉnh, Bảo tàng Quân khu 3, Bảo tàng Quảng Ninh tổ chức Lễ khai mạc triển lãm chuyên đề “80 năm Quân đội nhân dân Việt Nam anh hùng", nhân dịp kỷ niệm 80 năm Ngày thành lập Quân đội nhân dân Việt Nam (22-12-1944/ 22-12-2024) và 35 năm Ngày hội Quốc phòng toàn dân (22-12-1989/22-12-2024).

Tối 10-12, tại Moskva, Đại sứ quán Việt Nam và Cơ quan Tùy viên Quốc phòng Việt Nam tại Nga đã phối hợp tổ chức trang trọng lễ kỷ niệm 80 năm Ngày thành lập Quân đội nhân dân (QĐND) Việt Nam và 35 năm Ngày hội Quốc phòng toàn dân.

LTS: Tại Kỳ họp thứ tám, Quốc hội khóa XV đã thông qua Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Sĩ quan Quân đội nhân dân (QĐND) Việt Nam (viết tắt là Luật Sĩ quan sửa đổi) với tỷ lệ đại biểu tán thành gần như tuyệt đối và có hiệu lực thi hành từ ngày 1-12-2024. Luật được thông qua đúng dịp kỷ niệm 80 năm Ngày thành lập QĐND Việt Nam càng thêm ý nghĩa đối với Quân đội nói chung, đội ngũ sĩ quan (ĐNSQ) nói riêng.

Tối 10-12, lễ khai mạc Tuần phim kỷ niệm 80 năm Ngày thành lập Quân đội nhân dân Việt Nam diễn ra tại tỉnh Cao Bằng, do Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch giao Cục Điện ảnh chủ trì, phối hợp với các cơ quan, đơn vị tổ chức.

Trải qua 80 năm xây dựng, chiến đấu và trưởng thành, Quân đội ta đã lập nên những chiến công hiển hách trong 2 cuộc kháng chiến chống Pháp và chống Mỹ, đồng thời có những phát triển vượt bậc về lực lượng, trang bị, vũ khí và trình độ tác chiến.

Sáng 10-12, tại Trung tâm Hội nghị Quốc gia (Hà Nội), Trung tướng Trương Thiên Tô, Phó chủ nhiệm Tổng cục Chính trị Quân đội nhân dân Việt Nam chủ trì sơ duyệt Lễ kỷ niệm 80 năm Ngày thành lập Quân đội nhân dân Việt Nam (22-12-1944 / 22-12-2024), 35 năm Ngày hội Quốc phòng toàn dân (22-12-1989 / 22-12-2024).

Trải qua chặng đường 80 năm xây dựng, chiến đấu và trưởng thành (22-12-1944/22-12-2024), Quân đội nhân dân Việt Nam đã xây đắp nên truyền thống quý báu, vẻ vang, được Chủ tịch Hồ Chí Minh khen ngợi: “Quân đội ta trung với Đảng, hiếu với dân, sẵn sàng chiến đấu, hy sinh vì độc lập, tự do của Tổ quốc, vì chủ nghĩa xã hội. Nhiệm vụ nào cũng hoàn thành, khó khăn nào cũng vượt qua, kẻ thù nào cũng đánh thắng”.

Chiều 9-12, Cục Tuyên huấn, Tổng cục Chính trị, Quân đội nhân dân (QĐND) Việt Nam phối hợp với Viện Lịch sử Quân sự; Vụ Tuyên truyền, Ban Tuyên giáo Trung ương; Cục Khoa học, Chiến lược và Lịch sử Công an, Bộ Công an; Ban Tuyên giáo Tỉnh ủy Cao Bằng tổ chức họp báo giới thiệu Hội thảo khoa học cấp Quốc gia, kỷ niệm 80 năm Ngày thành lập QĐND Việt Nam (22-12-1944 / 22-12-2024) và 35 năm Ngày hội Quốc phòng toàn dân (QPTD) (22-12-1989 / 22-12-2024).

Sáng 9-12, nhân kỷ niệm 80 năm Ngày thành lập Quân đội nhân dân (QĐND) Việt Nam, 35 năm Ngày hội Quốc phòng toàn dân và 80 năm Ngày truyền thống Tổng cục Chính trị QĐND Việt Nam, đoàn công tác của Tổng cục Chính trị do Trung tướng Lê Quang Minh, Phó chủ nhiệm Tổng cục Chính trị QĐND Việt Nam làm trưởng đoàn đến dâng hương, tri ân Đại tướng Văn Tiến Dũng, nguyên Ủy viên Bộ Chính trị, nguyên Bộ trưởng Bộ Quốc phòng và Đại tướng Chu Huy Mân, nguyên Ủy viên Bộ Chính trị, nguyên Chủ nhiệm Tổng cục Chính trị QĐND Việt Nam.